Tiêm phòng COVID-19 đáp ứng miễn dịch dịch thể ở những người mắc bệnh tiểu đường
Tỷ lệ mắc bệnh tiểu đường cao tới 20% ở những người nhập viện vì bệnh do coronavirus 2019 (COVID-19) và một số lượng lớn bệnh nhân trải qua đợt bệnh nặng của COVID-19 là bệnh tiểu đường. Tỷ lệ tử vong tại bệnh viện của bệnh nhân COVID-19 bị đái tháo đường (DM) cao tới 25%
Viêm mức độ thấp mãn tính toàn thân là đặc điểm của các bệnh chuyển hóa như bệnh tiểu đường loại 2 (T2D). Điều này gây ra giải phóng cytokine quá mức, gây viêm, suy giảm khả năng thực bào hoặc glycation của các globulin miễn dịch. Điều này làm thay đổi kết quả của những người mắc bệnh đái tháo đường tiếp xúc với nhiễm trùng. Ngoài ra, những người mắc bệnh T2D có những thay đổi từ trước trong hệ thống miễn dịch thích ứng (tế bào lympho B và T), bao gồm các tế bào T biểu hiện mức độ thấp hơn của các phân tử đồng kích thích hoặc thụ thể interleukin (IL) -12. Hơn nữa, việc loại bỏ hội chứng hô hấp cấp tính nặng coronavirus 2 (SARS ‑ CoV ‑ 2) đòi hỏi một phản ứng hiệu quả của hệ thống miễn dịch thích ứng.
Do đó, những người mắc bệnh tiểu đường được coi là nhóm dân số có nguy cơ cao gặp phải các kết quả bất lợi về COVID-19. Tiêm phòng COVID-19 rất được khuyến khích trong dân số này; điều này đã dẫn đến ưu tiên trong các chiến lược tiêm chủng hiện tại của hầu hết các quốc gia. Tuy nhiên, liệu những người mắc bệnh tiểu đường có phải đối mặt với tình trạng giảm đáp ứng miễn dịch sau khi tiêm vắc xin SARS-CoV2 hay không vẫn còn là điều nghi ngờ.
Nghiên cứu
Một nghiên cứu mới được công bố trên máy chủ medRxi v * đã điều tra phản ứng miễn dịch dịch thể và các tác dụng phụ liên quan đến vắc xin COVID-19 ở những người mắc bệnh tiểu đường loại 1 (T1D) và T2D để làm sáng tỏ tác động của loại bệnh tiểu đường và kiểm soát đường huyết đối với phản ứng kháng thể sau khi tiêm chủng COVID-19.
Nghiên cứu này nhằm so sánh mức độ kháng thể SARS-CoV-2 sau khi tiêm vắc xin COVID-19 ở những người mắc bệnh tiểu đường với những người khỏe mạnh, không mắc bệnh tiểu đường.
Nghiên cứu “Đáp ứng miễn dịch với tiêm chủng Covid-19 ở những người mắc bệnh Đái tháo đường - COVAC-DM” là một nghiên cứu thuần tập tiền cứu, đa trung tâm, trong thế giới thực, bao gồm 161 người mắc bệnh DM tại hai trung tâm ở Áo - Đại học Y Graz và Medical Đại học Innsbruck, và một trung tâm ở Đức - Đại học Bayreuth.
Những người tham gia mắc bệnh T1D hoặc T2D, từ 18-80 tuổi, được chẩn đoán mắc bệnh tiểu đường trước khi tiêm vắc-xin COVID-19 được tuyển chọn từ các phòng khám ngoại trú tại các địa điểm tham gia. Những người tham gia sau đó được ghi danh theo hemoglobin glycated (HbA1c) và loại bệnh tiểu đường của họ vào một trong bốn nhóm được xác định trước - T1D được kiểm soát tốt với HbA1c ≤ 7,5%; T1D không được kiểm soát đầy đủ với HbA1c> 7,5%; T2D được kiểm soát tốt với HbA1c ≤7,5%; và T2D không được kiểm soát đầy đủ với HbA1c> 7,5%.
Những phát hiện
55 người tham gia có T1D, trong đó 49 người thuộc nhóm được kiểm soát tốt — có HbA1c trung bình là 6,6 ± 0,6% và 26 người không được kiểm soát đầy đủ — với HbA1c trung bình là 8,4 ± 0,9%. Trong khi đó, 75 người tham gia mắc bệnh đái tháo đường típ 2, trong đó 37 người mắc bệnh tiểu đường được kiểm soát tốt — có HbA1c trung bình 6,5 ± 0,6% và 38 bệnh nhân tiểu đường không được kiểm soát đầy đủ — với HbA1c trung bình 8,4 ± 0,9%
Nhóm đối chứng bao gồm 86 người tham gia khỏe mạnh. Trong số này, 49 (57%) là nữ với độ tuổi trung bình là 48 ± 11,6 tuổi, và 96,5% được tiêm vắc xin Moderna và 3,5% là vắc xin BioNTech / Pfizer.
Ba trường hợp nhập viện đã được ghi nhận sau khi tiêm vắc xin. Một trường hợp xảy ra 24 ngày sau liều tiêm chủng đầu tiên do phù ngoại biên và suy tim mãn tính. 12 ngày sau liều tiêm vắc xin thứ hai cho blốc nhĩ thất độ 3. Lần nhập viện thứ ba do sẩy thai khi thai được mười tuần.
Kết quả cho thấy 10-14 ngày sau liều tiêm chủng đầu tiên, 52,7% bệnh nhân T1D và 48,0% bệnh nhân T2D có kháng thể kháng SARS-CoV2-S trên giới hạn phát hiện 0,8, với mức trung bình thấp.
Kết quả cho thấy những người có T1D và T2D có phản ứng miễn dịch dịch thể với vắc-xin COVID-19 - được đo bằng kháng thể SARS-CoV-2 S vùng liên kết kháng thụ thể - tương đương với nhóm chứng khỏe mạnh.
Mức độ kháng thể cao hơn được phát hiện ở những người có T1D được kiểm soát tốt; tuy nhiên, sự khác biệt này không tồn tại sau khi điều chỉnh theo tuổi, giới tính và nhiều lần so sánh. Các phát hiện cũng chỉ ra rằng tuổi và mức lọc cầu thận ước tính (eGFR) dự đoán mức độ kháng thể sau khi tiêm chủng COVID-19, trong khi mức HbA1c thì không.
Cần lưu ý rằng những phát hiện này mâu thuẫn với một nghiên cứu quan sát gần đây từ Ý (nghiên cứu CAVEAT) đã chứng minh phản ứng kháng thể thấp hơn với tiêm chủng COVID-19 ở những người mắc bệnh T2D có HbA1c trên 7,0%. Điều này đi kèm với đáp ứng của tế bào T CD4pos giảm được đo bằng phản ứng của yếu tố hoại tử khối u (TNF) -α, IL-2, hoặc interferon (IFN) -γ.
Tuổi tác được coi là yếu tố quyết định chính đối với phản ứng miễn dịch dịch thể đối với việc tiêm vắc xin COVID-19. Dữ liệu trước đây đã xác nhận rằng những người cao tuổi có phản ứng kháng thể thấp hơn với các loại vắc xin này và thể hiện sự suy giảm kháng thể nhanh hơn.
Các đặc điểm lâm sàng khác dự đoán phản ứng kháng thể là - chức năng thận hoặc eGFR. Dữ liệu này gợi ý rằng khoảng thời gian tiêm chủng lại ở những người mắc bệnh tiểu đường và bệnh thận do tiểu đường tiến triển nên ngắn hơn.
Sự kết luận
Trong nghiên cứu này, không tìm thấy mối tương quan giữa kháng thể kháng SARS-CoV-2 S và thời gian mắc bệnh tiểu đường. Trong khi đó, mối tương quan của các kháng thể này với chỉ số khối cơ thể của bệnh nhân khá yếu.
Theo suy luận, mức độ kháng thể kháng SARS-CoV-2 S sau liều vắc-xin COVID-19 thứ hai có thể so sánh được ở nhóm chứng khỏe mạnh và cá nhân mắc bệnh T1D và T2D, bất kể kiểm soát đường huyết. Trong khi tuổi và chức năng thận có tương quan đáng kể với mức độ kháng thể.