Ung thư phổi: Xạ trị và Hóa trị

Ung thư phổi là một loại ung thư nghiêm trọng, là loại ung thư phổ biến thứ ba ảnh hưởng đến người Mỹ mỗi năm. Ung thư phổi có thể bắt nguồn từ khí quản (khí quản), phế quản (đường thở chính) hoặc mô phổi.

Ung thư phổi: Xạ trị và Hóa trị
Ung thư phổi: Xạ trị và Hóa trị

Những lựa chọn điều trị

Việc điều trị ung thư phổi phụ thuộc vào loại, kích thước và vị trí của ung thư.

Ví dụ, phương pháp điều trị ung thư phổi không phải tế bào nhỏ khác với phương pháp điều trị ung thư phổi tế bào nhỏ. Ung thư phổi tế bào nhỏ thường được điều trị bằng hóa trị vì nó thường lan ra ngoài phổi vào thời điểm được chẩn đoán và do đó không thể điều trị bằng cách cắt bỏ một phần hoặc toàn bộ phổi. Những người bị ung thư phổi tế bào nhỏ cũng có thể được điều trị bằng xạ trị.

Tương đối, ung thư phổi không phải tế bào nhỏ có thể được điều trị bằng phẫu thuật, hóa trị, xạ trị hoặc kết hợp các phương pháp này, tùy thuộc vào giai đoạn ung thư khi chẩn đoán.

xạ trị

Tùy thuộc vào giai đoạn và loại ung thư, xạ trị có thể được sử dụng. Ví dụ, xạ trị có thể được chỉ định như một biện pháp bổ sung sau phẫu thuật để tiêu diệt bất kỳ tế bào ung thư nào còn sót lại và giảm nguy cơ ung thư tái phát. Trước khi phẫu thuật, xạ trị cũng có thể được sử dụng để thu nhỏ khối u và giúp phẫu thuật an toàn và dễ dàng hơn.

Xạ trị cũng có thể được sử dụng như phương pháp điều trị chính cho những người mà ung thư chỉ xuất hiện ở ngực mà không thể phẫu thuật cắt bỏ. Ngoài ra, trong trường hợp mọi người có các vấn đề sức khỏe khác khiến phẫu thuật không thể là một lựa chọn, thì xạ trị có thể được sử dụng. Xạ trị cũng thường được sử dụng để điều trị ung thư tái phát hoặc như một phương pháp điều trị giảm nhẹ để giảm đau và cải thiện chất lượng cuộc sống của bệnh nhân.

Một số loại xạ trị chính được sử dụng trong điều trị ung thư phổi bao gồm xạ trị cơ thể lập thể (SBRT), xạ trị điều biến cường độ (IMRT) và xạ trị áp sát.

SBRT

SBRT là một hình thức xạ trị bên ngoài, trong đó các liều phóng xạ cường độ cao được phân phối chính xác đến mô bị ảnh hưởng. Quy trình này giảm thiểu lượng bức xạ đến các mô khỏe mạnh gần đó và giảm tác dụng phụ. Chụp X-quang hoặc chụp cắt lớp vi tính (CT) có thể được sử dụng để xác định vị trí chính xác cần được điều trị nhắm mục tiêu.

IMRT

IMRT là một kỹ thuật do máy tính hướng dẫn được sử dụng để nhắm mục tiêu chính xác các tế bào ung thư. Do đó, IMRT có thể làm giảm đáng kể lượng bức xạ truyền đến mô khỏe mạnh bình thường, do đó làm giảm tác dụng phụ. Chụp X-quang hoặc CT có thể được sử dụng để xác định vị trí chính xác cần được điều trị nhắm mục tiêu.

xạ trị

Brachytheraphy là liệu pháp bức xạ bên trong. Trong loại điều trị bức xạ này, các hạt phóng xạ nhỏ được đặt gần vị trí ung thư. Một số bệnh nhân có thể nhận được một loại phương pháp xạ trị cụ thể được gọi là liệu pháp xạ trị nội phế quản, trong đó liều lượng bức xạ cao được đưa đến đường thở, giúp giảm thiểu sự tiếp xúc không mong muốn với các mô bình thường xung quanh.

hóa trị

Hóa trị là một liệu pháp quan trọng trong ung thư phổi tế bào nhỏ sử dụng thuốc để tấn công các tế bào ung thư bằng cách làm gián đoạn sự phát triển của ung thư. Ung thư phổi tế bào nhỏ thường đáp ứng tốt với hình thức trị liệu này.

Các tế bào ung thư phân chia một cách bất thường không còn được kiểm soát như trong các tế bào khỏe mạnh. Khi một tế bào khỏe mạnh tiếp xúc với các tế bào tương tự khác, chúng sẽ ngừng phân chia thông qua việc sử dụng một cơ chế gọi là ức chế tiếp xúc.

Mặt khác, các tế bào ung thư mất khả năng này, do đó làm cho quá trình phân chia tế bào không còn bị hạn chế. Cho dù tế bào là tế bào ung thư hay khỏe mạnh, quá trình phân chia tế bào này diễn ra trong suốt chu kỳ tế bào, bắt đầu bằng giai đoạn nghỉ ngơi và di chuyển qua các giai đoạn phát triển tích cực rồi đến phân chia hoặc nguyên phân.

Sự thành công của hóa trị liệu trong việc tiêu diệt tế bào ung thư phụ thuộc vào mức độ hiệu quả của nó trong việc ngăn chặn sự phân chia tế bào. Các loại thuốc này thường hoạt động bằng cách làm hỏng DNA hoặc RNA hướng dẫn một tế bào tự sao chép trong quá trình phân chia. Các tế bào không thể phân chia sau đó sẽ chết. Các tế bào phân chia càng nhanh thì hóa trị càng hiệu quả, điều này cuối cùng sẽ dẫn đến sự co lại của khối u.

Hóa trị có thể được truyền tĩnh mạch hoặc uống bằng viên nén. Nó có thể được đưa ra theo chu kỳ, với việc điều trị được thực hiện trong một khoảng thời gian vài ngày, sau đó là một khoảng thời gian nghỉ ngơi. Thuốc hóa trị chỉ ảnh hưởng đến tế bào khi chúng đang phân chia được gọi là thuốc đặc hiệu cho chu kỳ tế bào, trong khi thuốc tác động đến tế bào khi chúng đang ở giai đoạn nghỉ ngơi được gọi là thuốc không đặc hiệu cho chu kỳ tế bào. Do đó, hóa trị liệu được lên lịch dựa trên loại tế bào, tốc độ phân chia của chúng và thời điểm thuốc có khả năng phát huy tác dụng, đó là lý do tại sao liệu pháp này thường được thực hiện theo chu kỳ.

Có nhiều loại thuốc hóa trị và cách kết hợp thuốc khác nhau có thể được sử dụng để điều trị cho bệnh nhân, nhưng thông thường nhất là sử dụng cisplatin hoặc carboplatin, thường kết hợp với một liệu pháp gọi là etoposide.

Thông tin liên quan